Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Trà Cổ

Đình Trà Cổ nằm ở khu Nam Thọ, phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Đây được đánh giá là ngôi đình khá đồ sộ ở địa đầu đất nước và hoàn toàn mang dấu ấn nền văn hoá Việt. Theo hồ sơ khoa học xếp hạng của di tích, Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê ( năm 1461), quá trình hình thành và tồn tại của đình Trà Cổ gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Trà Cổ ngày nay. Theo truyền thuyết, vào thời Hậu Lê (năm 1461), người dân làm nghề đánh cá từ đất Đồ Sơn (Thuộc thành phố Hải Phòng ngày nay) thường đi cả gia đình kiếm kế sinh nhai ở nhiều vùng biển xa, về cả miền cửa biển (Thuộc vùng biển Trà Cổ - Móng Cái hiện nay). Trong một lần sóng to gió lớn, mười hai gia đình đã trôi dạt vào một bán đảo hoang vu chỉ có sú vẹt và lau sậy. Không chịu nổi sự vất vả, sáu gia đình đã tìm cách để quay về quê cũ. Sáu gia đình còn lại quyết tâm bám đất, xây dựng một vùng quê mới. Thế rồi, ngày ngày họ cùng nhau khai phá đất mới, vừa đánh cá, vừa khai hoang. Ban đầu chỉ là 06 ngôi nhà đơn sơ và dần dần đã trở thành một xóm làng trù phú. Và như nhiều làng quê khác trên đất nước Việt Nam, đình Trà Cổ đã được nhân dân góp công, góp của xây dựng. Sau khi xây dựng đình, nhân dân địa phương đã trở về quê cũ để xin chân hương các vị thành hoàng làng về thờ tại Đình (Không Lộ, Giác Hải, Nhân Minh, Huyền Quốc, Quảng Trạch). Ngoài ra, đây cũng là nơi phối thờ của 6 vị tiên công đã có công khai khẩn, lập nên vùng đất Trà Cổ xưa. Trải qua những tác động của thời gian, đến nay đình Trà Cổ đã trải qua nhiều lần trùng tu lớn. Trong đó lần trùng tu gần đây nhất là vào năm 2012. Ngôi đình hiện nay, được xây dựng trên một khu đất có tổng diện tích hơn 1000 m2, quay theo hướng Nam, có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm 05 gian 02 trái bái đường và 03 gian hậu cung với kết cấu kiến trúc gỗ cổ truyền. Toàn bộ công trình được dựng lên bằng sự liên kết khung gỗ và được liên kết với nhau bởi các chốt mộng. Ngôi đình là một kiến trúc cổ bề thế, mái lợp ngói vẩy, bốn góc đao cong vút như một con thuyền rẽ sóng lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát. Đặc biệt các bức cốn ở vì kèo thể hiện đường nét chạm trổ chắc khỏe, tinh xảo và rất sống động. Đề tài phong phú gồm các mảng chạm long cuốn thủy phượng bay, hổ rình mồi bên cành hoa lá… Mỗi bức chạm là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn đương thời. Đây được đánh giá là một trong những ngôi đình có quy mô đồ sộ và kiến trúc độc đáo của khu vực Đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, tại đình Trà Cổ hiện nay còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: 03 đỉnh hương đồng, 2 hạc cưỡi đầu rùa bằng gỗ sơn son thiếp vàng, 8 long ngai bằng gỗ của thời Nguyễn, 12 sắc phong chất liệu giấy… Hàng năm, từ ngày 30/5 đến 3/6 âm lịch, tại đình Trà Cổ diễn ra nhiều hoạt động lễ hội truyền thống. Đây là một lễ hội có quy mô lớn, tiêu biểu cho loại hình lễ hội dân gian trên địa bàn thành phố Móng Cái nói riêng và của cả nước nói chung. Nét độc đáo của lễ hội đình Trà Cổ là lễ rước thần trên biển và hội thi “Ông voi” (Cuộc thi giữa 12 chú lợn được 12 ông đám chăm sóc, nuôi lớn). Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2012 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích thương cảng Vân Đồn

Thành lập năm 1149, Vân Đồn trở thành thương cảng đầu tiên của nước Đại Việt. Trang Vân Đồn trở thành đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính cấp địa phương. Để bảo vệ an ninh quốc gia, triều đình quy định, tàu thuyền nước ngoài, dù xa hay gần, đã vào cảng đều phải neo ở Vân Đồn, không được tiến sâu vào nội địa. Người nước ngoài chỉ được phép buôn bán ở một số địa điểm nhất định và chịu sự kiểm soát của nhà nước. Nhà Lý (1009-1225) đưa ra nhiều chính sách khuyến khích ngoại thương nên giao thương tại Vân Đồn phát triển. Hàng hóa theo tàu nước ngoài xuất đi chủ yếu là trầm hương, ngọc trai, ngà voi, vỏ quế, sừng tê giác, vàng, bạc, đồng, diêm tiêu, hải sản biển… Hàng hóa nước ngoài nhập vào là gấm vóc. Chỉ nhà nước đảm trách hoạt động ngoại thương, tư nhân không được tham gia. Đến thời nhà Trần (1225-1400), thị trường hương liệu thế giới sôi động, sự phát minh ra con đường hàng hải xuyên biển từ Trung Quốc đến Ai Cập đã đẩy nhịp độ buôn bán quốc tế phát triển mạnh hơn. Buôn bán ở thương cảng Vân Đồn tấp nập, mở rộng với nhiều nước như Nhật Bản, Mông Cổ, Philippines và châu Âu. Việc trấn giữ, quản lý ngoại thương vùng Vân Đồn được vua Trần giao cho các thân vương, đại thần trọng chức. Nổi bật trong số đó là Nhân huệ vương Trần Khánh Dư. Lúc này Vân Đồn được bảo vệ chặt chẽ. Rào gỗ được dựng lên quanh những nơi buôn bán và bãi biển xung yếu của đảo. Trần Khánh Dư còn ngăn chặn quân Trung Quốc trà trộn vào bằng cách cho quân trang Vân Đồn đội nón Ma Lôi, loại nón được sản xuất từ hương Ma Lôi, Hồng Lộ (nay là Hải Dương) để dễ dàng nhận ra quân Đại Việt. Vì phần lớn người Vân Đồn làm nghề buôn nên cách ăn mặc đều giống người phương Bắc. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: “Nhiều đoàn thương thuyền trước đây vào các cửa biển Tha, Viên ở châu Diễn, nay phần nhiều tụ tập ở Vân Đồn”. Không chỉ mở rộng về địa giới hành chính, Vân Đồn từ trang được nâng lên thành một trấn, lập vào thời Trần Dụ Tông (1345), thuộc lộ Hải Đông, sau đổi là lộ An Bang. Triều Trần đặt quan cai quản Vân Đồn như một trọng trấn gồm có quan Trấn (võ tướng nắm giữ), quan Lộ (văn quan nắm giữ) và quan Sát hải sứ (quan kiểm soát mặt biển), đặt ở đây một đội quân riêng gọi là quân Bình Hải, có nhiệm vụ tuần tra bảo bảo vệ vùng biển Đông Bắc, kiểm soát an ninh hoạt động ngoại thương. Ngoài việc buôn bán, các vua Trần còn cho xây dựng nhiều chùa tháp với quy mô lớn như chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát, Bảo Tháp… ở xã Thắng Lợi để đáp ứng nhu cầu tôn giáo cho cư dân và khách buôn nước ngoài sùng bái đạo Phật. Nhà Lê sơ (1428-1527) sau khi giành được độc lập đã thi hành nhiều chính sách khắt khe đối với ngoại thương. Triều đình quy định rất rõ hoạt động ở thương cảng Vân Đồn trong bộ Quốc triều hình luật (thường gọi là luật Hồng Đức). Theo đó, các quan ty tự ý ra Vân Đồn đều bị xử tội đồ hay lưu; người tố cáo việc ấy được hưởng một tư (điều 612). Điều 615 luật Hồng Đức chỉ rõ: “Người ở trang Vân Đồn chở hàng hóa lên kinh thành bán và khi trở về không có giấy phép của An Phủ ty và giấy khám đạc của Đề Bạc ty thì bị biếm một tư, phạt 100 quan tiền; thưởng người tố cáo một phần ba số tiền phạt. Nếu tự ý đem hàng hóa đến bán ở các nơi làng xã ngoài kinh thành thì xử biếm ba tư, phạt 200 quan tiền. An Phủ ty, Đề Bạc ty vô tình không biết thì xử biếm một tư; cố ý dung túng thì biếm một tư và bãi chức”. Thuyền bè ngoại quốc muốn đến trang Vân Đồn buôn bán, muốn đậu lại lâu đều phải làm giấy trình An Phủ ty, nếu trang chủ không trình mà tự ý cho ở lại thì bị phạt tiền 200 quan. Do việc kiểm soát ngặt, hoạt động thương mại ở Vân Đồn sút kém hơn thời Lý, Trần nhưng vẫn chiếm vị trí quan trọng dưới thời Lê. Đến thời nhà Mạc (1527-1677), với chính sách mở cửa về thương mại, hoạt động ngoại thương tại thương cảng Vân Đồn lại hưng thịnh. Nhà Mạc còn cho xây dựng chùa ở Vụng huyện, xã Thắng Lợi, xây thành lũy ở Cẩm Phả, Hoành Bồ để phòng thủ đất nước. Thời Lê trung hưng (1533-1789), hoạt động giao thương ở Vân Đồn vẫn được phát triển. Ngoài việc buôn bán, nhà Lê còn quan tâm xây dựng đình làng để làm nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh cho cư dân biển đảo như đình Cái Làng, đình Cống Cái, xã Quan Lạn. Cuối thế kỷ 17, Kẻ Chợ (Thăng Long), Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam) mở cửa cho thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh… được vào sâu trong nội địa buôn bán. Thương cảng Vân Đồn mất hẳn vai trò trung tâm thương mại. Hoạt động ngoại thương vẫn diễn ra, nhưng không còn sầm uất. Bước sang đầu thế kỷ 19 thời nhà Nguyễn, thương cảng Vân Đồn không còn hoạt động. Cư dân trên một số bến cổ di chuyển đi nơi khác, kho tàng bến bãi dần bị hỏng. Các bến thuyền thương mại chuyển thành bến phục vụ nhu cầu đánh cá, trao đổi lâm, hải sản đến các nơi khác trong nước của nhân dân địa phương. Trải qua thời gian và sự bồi lắng của biển cả, diện mạo sầm uất của khu thương cảng Vân Đồn xưa không còn. Hiện nay, trong lòng đất trên bờ vụng tại các bến thuyền cổ vẫn còn hàng triệu mảnh sành sứ vỡ hay nguyên vẹn, nền nhà, nền đình, nền chùa, tiền đồng cổ trong suốt 7 thế kỷ. Vân Đồn là thương cảng đầu tiên của nước Đại Việt, không chỉ hoạt động đơn tuyến với chỉ một bến cảng duy nhất mà là một hệ thống các bến bãi, vụng đỗ tàu liên đới với nhau. Trung tâm của thương cảng có phạm vi 200km2, ở vùng vịnh Bái Tử Long, thuộc địa bàn xã Thắng Lợi, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Vùng Cống Đông - Cống Tây (xã đảo Thắng Lợi, huyện Vân Đồn) là trung tâm một thời của thương cảng Vân Đồn. Suốt gần 7 thế kỷ, thương cảng Vân Đồn đông đúc tàu buôn đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ, Philippines và châu Âu. Hàng hóa theo tàu nước ngoài xuất đi chủ yếu là trầm hương, ngọc trai, ngà voi, vỏ quế, sừng tê giác, vàng, bạc, đồng, diêm tiêu, hải sản... Hàng hóa nước ngoài nhập vào là gấm vóc. Trải qua thời gian và sự bồi lắng của biển cả, diện mạo sầm uất của thương cảng Vân Đồn xưa không còn. Hiện trong lòng đất, trên bờ vụng tại các bến thuyền cổ vẫn còn hàng triệu mảnh sành sứ, nền nhà, nền đình, nền chùa, tiền đồng cổ. Với những giá trị lịch sử, thương cảng Vân Đồn đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử ngày 29/10/2003. Ngày 24/10/2023, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1225/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử quần thể Thương cảng Vân Đồn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh 2255 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Đồng Cổ

Đền Đồng Cổ là một trong những di tích lịch sử – văn hóa của huyện Yên Định được xếp hạng cấp Quốc gia (2001), cách TP. Thanh Hóa 40 km về phía Tây Bắc. Cùng với các di tích: Lam Kinh, thành nhà Hồ, Đông Sơn, Núi Đọ, Núi Nưa…, đền Đồng Cổ là điểm du lịch tâm linh và về nguồn, tạo thành quần thể di tích lịch sử – văn hóa Nổi tiếng của xứ Thanh có bề dày truyền thống từ lâu đời. Du khách từ TP. Thanh Hóa, ngược Rừng Thông, qua cầu Vạn Hà (sông Chu), đến thị trấn Quán Lào, đi chừng 12 cây số lên xã Yên Thọ là đến với đền Đồng Cổ ở thôn Đan Nê, xã Yên Thọ, nơi vừa có phong cảnh hữu tình, vừa có những huyền thoại gắn với nhiều giai đoạn trong lịch sử đất nước. Hiếm có một di tích nào ở xứ Thanh có lịch sử lâu đời gắn liền với những huyền thoại và nhiều giai đoạn lịch sử của đất nước như Đền Ðồng Cổ. Thuở xưa, với vị trí đắc địa nằm bên bờ hữu sông Mã, Đền Đồng Cổ đã trở thành điểm dừng chân của nhiều tao nhân mặc khách trên đường thiên lý. Ngày nay, danh tiếng của ngôi đền vẫn còn âm vang như mùa xuân vĩnh cửu của dân tộc thu hút du khách xa gần tìm về với cội nguồn. Cách thành phố Thanh Hoá 40km về phía Tây Bắc theo Quốc lộ 47 đến xã Yên Thọ (Yên Định) là du khách đã đến với Đền Đồng Cổ huyền thoại và hữu tình; cùng với di tích Lam Kinh, thành nhà Hồ, Đông Sơn,… đã tạo thành quần thể di tích lịch sử - văn hóa có bề dày truyền thống lâu đời của xứ Thanh. Tương truyền, một vị vua khi đi đánh giặc qua đây có nghỉ lại một đêm trên bến Trường Châu bờ phải sông Mã (nay thuộc xã Yên Thọ). Trong giấc chiêm bao, vua được một vị thần xưng là thần núi Đồng Cổ báo mộng rằng dưới chân núi có trống đồng cổ, đào lên dùng tiếng trống làm linh khí đuổi giặc. Khi vua tỉnh giấc còn nghe tiếng chuông đồng vọng từ ngôi đền dưới chân ba ngọn núi. Nhà vua làm theo những điều mà sơn thần nơi đây báo mộng. Quân giặc nghe tiếng trống đồng âm vang đã sợ khiếp vía và rút chạy. Từ đó, nơi ba ngọn núi đá chụm đầu vào nhau, tạo thế đoàn kết như kiềng ba chân, đã trở nên linh thiêng. Lịch sử ngôi đền ở Thượng Điện đã ghi: “Miếu Đồng Cổ được khởi dựng từ thời Hùng Vương (2569 – trước Công nguyên), đến thời Lý (1020) miếu được sửa sang lại, sang thời Lê - Trịnh (1630), miếu được xây dựng khang trang, to đẹp hơn… Miếu thờ thần núi Đồng Cổ rất hiển linh, vị thần đã giúp các triều đại đánh thắng giặc ngoại xâm và diệt trừ phản loạn: Giúp Vua Hùng đánh thắng giặc Hồ Tôn; giúp Vua Lý đánh thắng giặc Chiêm và diệt trừ phản loạn; giúp Vua Lê - Chúa Trịnh đánh tan nghịch Mạc; các đời Đinh, Lý, Trần, Lê thờ cúng đều ứng nghiệm, giúp việc giữ gìn đất nước…”. Vốn là nơi diễn ra các nghi lễ của các triều đại vua chúa nước ta nên trong đền còn lưu giữ rất nhiều thần tích, sắc phong của các triều đại. Các vương triều Trần, Lê, Trịnh - Nguyễn vẫn duy trì các nghi thức quốc lễ tại đền Đồng Cổ ở Yên Định (Thanh Hóa) và phường Bưởi (Hà Nội). Theo những người cao tuổi trong làng Đan Nê, đền Đồng Cổ từng có 38 gian, bề thế tựa lưng vào Tam Thái Sơn (hay còn gọi là dãy núi Đổng), bao quanh đền là rừng cây nguyên sinh rậm rạp, nhiều cây to, có nhiều chim, thú. Qua biết bao thăng trầm biến đổi, nay chỉ còn những ngọn núi đá với cây mọc tái sinh tầng thấp. Đền có Nghi môn gồm 3 tầng, 8 mái, mang phong cách kiến trúc thế kỷ 15 (thời Lê), được ghép bằng những khối đá vuông vức, cuốn thành vòm tò vò. Theo những bậc đá lên đến ngôi miếu cổ trên núi Xuân, du khách có thể thu vào tầm mắt phong cảnh của dòng sông Mã giữa đôi bờ bạt ngàn những ruộng ngô xanh mướt, xa xa phía bên kia sông là Thành Nhà Hồ cổ kính, trường tồn cùng thời gian. Trước đền, hồ Bán Nguyệt như một tấm gương soi mây trời lồng bóng núi. Thời kháng chiến chống Pháp, hang động Ích Minh trong lòng ngọn núi Tam Thái Sơn là xưởng sản xuất vũ khí của quân đội ta, trong hang còn ghi dấu vỏ bom và những vũ khí tự tạo. Khi quân Pháp phát hiện ra chúng đã cho máy bay ném bom phá đền Đồng Cổ. Ngôi đền chỉ còn lại nền móng, hai tấm bia, miếu nhỏ lưng chừng đỉnh núi Xuân, và chiếc cổng Nghi môn nằm ở phía tây ngôi đền. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một nhà máy điện cũng sơ tán về đây, sản xuất điện phục vụ kháng chiến ngay trong lòng hang Nội ở ngọn núi bên trái ngôi đền. Năm 2010, với ý nghĩa lịch sử và giá trị tâm linh sâu sắc Di tích đền Đồng Cổ ở làng Đan Nê, xã Yên Thọ (Yên Định, Thanh Hóa) được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội gắn biển công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đây thực sự là Di tích lịch sử - văn hóa có giá trị đặc biệt với người dân Việt Nam, nó thể hiện rõ tâm linh hướng thiện và tâm thức về nguồn, vọng ngưỡng lòng trung thành, yêu nước của người Việt Nam, phát huy những giá trị tiếp nối truyền thống thượng võ của dân tộc ta. Đây cũng là điểm tham quan, thưởng ngoạn và thắp hương cầu nguyện của du khách trong và ngoài nước mỗi dịp xuân về. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3197 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Nguyễn Phục

Nghè Mỹ Lộc là tên mà dân gian thường gọi thay vì tên quản lý nhà nước Đền thờ Nguyễn Phục - để định danh về tâm linh, tín ngưỡng của người làng mình. Theo Hương ước cổ làng Mỹ Lộc, xã Định Tiến được đóng quyển gần 20 trang bằng chữ Hán, lập ngày 24 tháng 2 năm Thiệu Trị 7, tức năm 1847 (dưới triều Nguyễn) cách nay 176 năm, thì nghè làng Mỹ Lộc thờ Đông Hải Linh ứng Huệ trạch Hoằng Hiệp Quảng nhuận (tức Đông Hải Đại vương Nguyễn Phục). Theo đó, dân làng Mỹ Lộc đã rước chân hương từ nhà thờ Đông Hải Đại vương Nguyễn Phục tại xã Quảng Trường, huyện Quảng Xương (nay thuộc phường Quảng Châu, TP Sầm Sơn) về lập nghè thờ Thần hoàng làng. Còn trong sách “Lịch sử Đảng bộ xã Định Tiến” (NXB Thông tin) lại ghi cụ thể rằng thời điểm đó, ở Lỗ Thôn (nay là thôn Mỹ Lộc) có cụ Mai Văn Y làm quan dưới triều vua Lê Ý tông, niên hiệu Vĩnh Hựu được sắc phong: Phấn lực tướng quân, sau là Minh Vũ tướng quân xin rước chân hương đức Thám hoa Nguyễn Phục - sắc Đông Hải - thượng đẳng thần về lập Thành hoàng làng. Nguyễn Phục quê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ Hoàng giáp tiến sĩ niên hiệu Thái Hòa (1443-1453) thời vua Lê Nhân tông. Ông đã làm quan đến chức Hàn lâm phi viện tướng quân, kiêm chức sư phụ dạy học cho các Thần vương, Hoàng tử trong triều. Năm 1467, ông được bổ nhiệm chức tham chính sứ, xứ Thanh Hoa. Ông đã có công lớn trong việc đánh đuổi giặc Chiêm Thành và trấn an cửa biển. Có lần, khi vua Lê Thánh tông đem quân đi đánh dẹp Chiêm Thành, Nguyễn Phục giữ chức Đô chỉ huy sứ đốc vận chuyển quân nhu. Một lần đi tiếp tế quân lương, thuyền vận lương gặp bão lớn ở cửa Lạch Trào, ông quyết định chờ tan bão mới xuất quân vì thế lương bị chậm vài ngày. Quân luật khép ông vào tội “Bất tuân quân lệnh”, xử chém vào ngày 20 tháng 10 năm Canh Dần (1470) và táng tại địa phận phường Quảng Châu, TP Sầm Sơn ngày nay. Sau khi ông mất, xét công lao của ông đã đóng góp cho đất nước, vua Lê Thánh tông đã truy tặng sắc phong và cho dựng rất nhiều đền để thờ ông. Các triều đại sau như đời Lê Hiến tông, Lê Dụ tông đều sắc phong Nguyễn Phục hàng Thượng đẳng phúc thần. Một con người khoa bảng, một người dám chịu tội trước hành động của mình, đồng thời là người thương dân, thương quân... tấm lòng ấy khiến Nhân dân khắp nơi nể phục, trong đó có dân làng Mỹ Lộc. Việc rước ngài về thờ cũng bởi mong muốn giáo dục cháu con giữ được đức, tài, để xây dựng làng, xã tốt hơn. Đó là lý do mà đền thờ Nguyễn Phục có mặt trên đất Mỹ Lộc. Đền thờ Nguyễn Phục đã được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận xếp hạng di tích cấp tỉnh vào năm 1999. Đền thờ Nguyễn Phục chính là một phần đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người dân thôn Mỹ Lộc (Định Tiến). Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2827 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền thờ Hoàng Minh Tự (Đền Đệ Tam)

Đền Hoàng Minh Tự Sầm Sơn nằm tại địa bàn phường Trường Sơn, thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Lịch sử của đền có tên thường gọi như “Hoàng Minh Tự” tên này là được đặt tên theo nhân vật, còn được đặt theo vị trí địa lý còn có tên gọi là đền Hạ hay còn gọi là đền đệ Tam (Sở dĩ gọi tên đền Hạ vì đền nằm ở chân núi Trường Lệ). Phía chân núi có đền Trung (thờ Tô Hiến Thành) đỉnh núi có đền Thượng hay còn gọi là đền Độc Cước. Về nhân vật Hoàng Minh Tự, thần họ Hoàng úy là người Bách Việt từ Nam Hoàng Hà (Trung Quốc) đến Việt Nam rồi ở lại một xã thuộc huyện Hậu Lộc Thanh Hóa. Khoảng năm Long Khánh đời nhà Trần(1373 - 1377) có giặc Chiêm thành đến xâm lấn. Vua nhà Trần thân chinh đi đánh giặc, ông đứng giữa đường đón và xin theo đi đánh giặc. Vua bèn sai ông làm đốc vận quân lương. Ông hoàn thành nhiệm vụ tốt và được vua Trần phong trước “Minh Tự”. Vì vậy nhân dân quen gọi ông là “Hoàng Minh Tự”. Khi ông mất triều đình sai dân lập đền thờ ở Thanh Hóa, theo thông kê của sách có (06) nơi thờ là: Xã Uy Hồ thôn đồng Lạc, thôn Xuân Lôi (Nay là xã Xuân Kỳ - Lộc Tân – Hậu Lộc;) thôn trường Lệ, xã Du Vịnh; Sơn thôn huyên Quảng Xương, đại danh Sơn thôn chính là đền Hoàng Minh Tự mà chúng ta đang thờ phụng đến nay đã hơn 700 năm – Là nơi thờ chính (Làng núi chính là phường Trường Sơn, hiện nay). Đền “Hoàng MinhTự” có kiến trúc kiểu chuôi vồ. Có ba thành phần chính là tiền đường, trung đường, hậu cung. Đây là kiểu kiến trúc đền sớm nhất của nước ta trong đền hiên vật cổ của đền không còn nhiều. Chỉ còn một số hiện vật như hương án, long ngai, đại tự (bức đại tự sơn son thiếp vàng ghi chữ hán”Tối linh từ” tức là đền rất thiêng). Có bốn đạo sắc phong,một cỗ kiệu song loan,một bộ áo chầu.Những hiện vật này được bảo quản tốt (Đang lưu giữ và bảo quản tại đền Độc Cước chờ ngày rước về đền Hạ . Căn cứ vào dòng chữ ghi trên thương lương ,tiền đường .Lần trùng tu gần đây nhất là vào năm bảo đại thứ ba 1928 đến nay (đã tròn 80 năm).Toàn bộ kết cấu cột, xà dọc và bộ vì kèo đền làm bằng vật liệu xi măng cốt thép, làm theo kiểu vuông thành chữ nhật. Các bộ phận như kẻ, đấu, dường đố đều có trang trí họa tiết hoa văn hình mây lá. Hai bức tượng Võ quan đắp bằng vôi mật ( Do công ty tư vấn và thiết kế công trình văn hóa Bộ văn hóa – thông tin, kiểm tra và thống kê tháng 10 năm 2002). Thần “Hoàng Minh Tự” là vị thần mà các nhà nghiên cứu cho biết Thanh Hóa có 06 nơi thờ. Song phường Trường Sơn chúng ta tự hào có đền Hoàng Minh Tự là đền chính, thần “Hoàng Minh Tự” là biểu tượng hoàn hảo của tinh thần đoàn kết cộng đồng, sự lao động cần cù sáng tạo, chống lại các thế lực xấu xa, vì cuộc sống bình yên của nhân dân .vv… mà hậu sinh chúng ta đời nào cũng phải học tập. Thần Hoàng Minh Tự là hình tượng cao đẹp, không mang danh lợi, vì cuộc sống bình yên của nhân dân .vv… mà mỗi chúng ta, ai ai cũng cần học tập noi theo, xin thắp một nén hương, trầm mặc dâng lên đấng thần linh, tổ tiên mà tự nhủ với lòng mình: Hãy rũ bỏ những gì xấu xa, khuất tắt mà làm nhiều việc thiện, làm nhiều việc tốt đẹp góp phần mình xây dựng, điểm tô cho cuộc sống này, cuộc sống hiện tại và tương lai tốt đẹp hơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3083 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là một ngôi chùa cổ có từ trước thời Lý và được xếp hạng di tích quốc gia; chùa thuộc địa phận thôn Duy Tinh, xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Chùa cũng là nơi thờ đại tướng Trần Hưng Đạo. Xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc xưa kia là trị sở của quận Cửu Chân gần 400 năm (suốt thời Lý, Trần). Thái úy Lý Thường Kiệt đã từng ở đây 19 năm. Cuốn từ điển di tích văn hoá Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học &Xã hội (trang 582) ghi về chùa như sau: "Chùa có từ lâu, trước đời Lý. Vua Lý Nhân Tông đi tuần phương nam, xa giá dừng ở trị sở châu Ái (Thanh Hoá) rồi trở về... để báo ơn vua, chúc quốc vận trường tồn, Thông phán Chu Công (người được vua nhà Lý cử trấn giữ, cai quản Thanh Hóa) bàn giao cho huyện lệnh là Lê Chiếu dựng lại ngôi chùa cổ đã đổ nát. Dân bản huyện góp lương, góp sức, san gò, lấp trũng, thợ mộc, thợ nề, gắng sức trong 2 năm dựng xong chùa vào cuối năm mậu tuất (Hội Tường Đại Khánh 9) (1118). Quy mô kiến trúc to lớn, xây dựng chạm trổ công phu…. Qua các triều đại tiếp theo, Chùa là thiền viên có danh tiếng ở Ái Châu. Do biến động của lịch sử, chùa bị đổ nát. Năm 1952 toà tiền đường đã bị bom Pháp làm sập; tấm bia thời Lý bị sứt trán…Sau đó, chùa được các nhà sư và nhân dân quanh vùng sửa chữa lại với quy mô nhỏ, diện tích chùa bị thu hẹp. Sau này, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh đã được Bộ Văn hoá đưa vào danh sách Di tích quốc gia Việt Nam ngày 13/3/1990. Chùa được tu bổ lớn từ năm 1997: gác chuông, trung đường, toà tiền đường tôn tạo hoàn thành năm 2001 có kiến trúc đẹp gồm tám mái, với các cột xà, cửa… toàn bằng gỗ lim, nhà tổ cũng được tu bổ năm 2005, cầu đá năm 2007… Bộ Văn hoá thông tin đã đồng ý cho ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá phê duyệt dự án tổng thể tôn tạo chùa chính và khuôn viên chùa. Đến nay (2010), phần tôn tạo cơ bản đã hoàn thành. Ngoài ra, cùng với sự đóng góp của phật tử khắp nơi, nhà chùa còn cải tạo được hồ sen trước chùa và xây cây cầu vòm bắc qua hồ sen dẫn vào chùa, tạo nên vẻ đẹp cổ kính vốn có của các ngôi chùa cổ. Hiện nay chùa còn nhiều hiện vật quý của thời Lý mà các di tích cùng thời không có. Cụ thể là: hàng rồng lớn chạm trên đá là những phần còn lại của cây tháp lớn, những đầu rồng và phượng bằng gốm rất lớn mang tư cách những con vật vũ trụ. Trên tam bảo còn để lại 3 bệ đá hoa sen tương tự bệ đá ở chùa Thầy Hà Nội, nhưng các bệ đá này đã được làm kĩ hơn ở các làn sóng dưới chân. Trong chùa còn nhiều tượng gỗ rất quý, đặc biệt là 3 pho tượng quan âm bằng gỗ được tạc vào khoảng giữa thế kỷ 17. Những đồ thờ trong chùa như bàn, ngai, khám, ỷ đã có suốt trong các thế kỷ 17, 18, 19. Chuông của chùa được đúc vào năm Gia Long thứ 11 (1812). Ngay sau khi bước qua cây cầu đá dẫn vào chùa, du khách sẽ thấy hai tượng Hộ pháp uy nghi ngay trước cổng chùa. Bước qua cổng là đến khuôn viên chính của Chùa. Bên phải là tiền đường phụ dành cho các gia chủ làm lễ. Bên trái là dãy nhà ở dành cho tăng ni trong chùa. Tiền đường chính ở giữa khá lớn và hầu hết các hoạt động tế lễ đều diễn ra ở đây. Bước qua bậc cửa, du khách sẽ thấy hiện ngay trước mặt là rất nhiều pho tượng lớn uy nghi trải dài mãi tận sâu bên trong. Ngay bên trái sảnh đường là kệ thờ các thân nhân phật tử quá cố được gửi vào chùa. Du khách có thể đi sâu vào bên trong khám phá tài năng của các nghệ nhân hoặc chứng kiến quang cảnh của các buổi cầu siêu. Chùa tổ chức lễ hội hàng năm từ ngày 8-10/2 âm lịch thu hút không những bà con phật tử nhiều nơi mà còn cả vị đại biểu của tỉnh và huyện cũng như khách thập phương về dự. Vào mùng một tết Nguyên đán, nhân dân trong huyện đi lễ rất đông. Nguồn Cổng thông tin điển tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2805 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Khải Nam

Chùa Khải Nam trước năm 1945 nằm trên địa bàn Làng Cá Lập, xã Lương Niệm, Tổng Giạc Thượng (vào đầu thế kỷ 19 đổi thành tổng Cung Thượng), Phủ Tĩnh Gia, Trấn Thanh Hoa. Nay là xã Quảng Tiến, thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Chùa Khải Nam có nhiều tên gọi khác nhau. Trước kia chùa có tên gọi là Chùa ải hay Chùa Giạc. Chùa ải là tên nôm do đọc chệch âm từ chữ Khải, chữ hán tự mà ra, còn tên Chùa Giạc là tên gọi theo địa danh hành chính. Đến cuối thế kỷ 19 thì Chùa Khải Nam mới có tên gọi chính thức bằng chữ hán. Tên Chùa Khải Nam hiểu theo nghĩa thông thường là: Mở rộng lòng từ bi, đón nhận cứu khổ mọi chúng sinh trên Nước Nam. Đã phần nào đã nói lên tư tưởng Phật phái thời Nhà Trần. Chùa Khải Nam xây dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê, trước cửa Tam quan có Chợ Chùa với nhiều cây cổ thụ cao to, sầm uất. Tam quan chùa với gác chuông như một hoa sen vuon lên giữa biển lúa xanh rờn, đuợc vun bón bởi phù sa sông Mã bồi đắp. Đây là cụng trình kiến trúc nghệ thuật đậm vẻ kiến trúc của thế kỷ 17. Với nhiều phù điêu, đường nét hoa văn tinh sảo, hài hoà. Tượng Phật trong chùa đều mang giá trị nghệ thuật rất cao, cách thể hiện giáng mẫu, điêu khắc khi tạo hình, hợp với tính truyền thống của người Việt, truyền thống Phật giáo. Các tượng đều được trạm khắc rất kỹ, chau chuốt mềm mại. Khuôn mặt tượng mang dáng vẻ đôn hậu, gần gũi, mắt nhìn xuống trong sự soi rọi nội tâm và mỉm cười cứu độ. Biểu hiện tính nhân đạo rất cao. Hiện nay Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hoá còn đang lưu giữ được một số phù điêu hoa văn bằng gỗ rất đẹp của chùa Khải Nam. Trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước, các cây cổ thụ, Tam quan, Nhà Tả vu, Tường rào đã được tháo dỡ để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Đến năm Đinh Tỵ (1977) do có sự sai lầm về quan điểm giữa truyền thống văn hoá dân tộc với mê tín dị đoan. Chùa Khải Nam đã bị tháo dỡ và hư hỏng, may thay còn rất nhiều số đồ thờ cổ quý giá như Bát hương, Lư hương, Hạc đồng... vẫn còn được địa phương và Phật tử bảo quản, lưu giữ lại. Trên nền Chùa cũ, nay là Trường Tiểu học còn một cây Sanh già gần 300 tuổi hình thù cổ quái rất đẹp. Theo đánh giá của các chuyên gia Sinh vật cảnh trong nước thì cây si có giá trị gần Một Tỷ Đồng. Đây là cổ vật của toàn dân nên đang được địa phương chăm sóc giữ gìn chu đáo. Vào cuối những năm thập kỷ 80, thiên niên kỷ thứ 2. Theo nguyện vọng của nhân dân và các Phật tử. Các Cụ Ngũ hiệu Làng Cá Lập đã kêu gọi nhân dân, Phật tử trong Làng và thập phương phát tâm công đức xây dựng tạm một gian nhà gần 20m2 ngay sát Đền thờ Làng Cá Lập (Di tích LSVH cấp Quốc gia) để thờ Phật. Đến năm Giáp Tuất (1994) do nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh, Nhân dân Làng Cá Lập lại đóng góp tu bổ, cơi nới rộng ngôi chùa, tô tạc thêm tượng Phật như hiện nay. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2915 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ An Dương Vương

Đền thờ An Dương Vương thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu nằm ở vị trí địa lý thuận lợi về giao thông thủy bộ, có Quốc lộ 47 chạy qua, cùng với con sông Đơ, một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lạch Trào chạy qua trước làng về phía Nam, dãy núi Trường Lệ như bức bình phong. Xưa kia làng Bình Hòa thuộc xã Bình An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay Bình Hòa chia làm 4 thôn: Châu Bình, Châu An, Châu Thành, Châu Chính. Theo truyền thuyết, sau khi An Dương Vương chém Mỵ Châu và nhảy xuống biển tự vẫn có đánh rơi một chiếc đai vàng vào cánh đồng trước đền bây giờ. Để tưởng nhớ đến công lao dựng nước của An Dương Vương, làng Bình Hòa đã lập đền thờ An Dương Vương và Công chúa Mỵ Châu. Sau này, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, ngôi đền không còn nữa. Năm 1993, cấp ủy, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã trùng tu lại đền với các hạng mục: Thượng cung, Trung điện, Tiền đường, Đền thờ công chúa Mỵ Châu, đền thờ Mẫu, đền thờ Bác Hồ...với tổng diện tích gần 4000m2. Năm 1997, đền thờ An Dưong Vương và công chúa Mỵ Châu được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2997 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cá Lập

Ngoài tên gọi dân gian, đền Cá Lập (tọa lạc trên địa bàn làng Cá Lập xưa kia) còn được biết với những tên gọi như: đền thờ Tây Phương Thành hoàng xã Quảng Tiến; Nghè làng Trấp, hay tên chữ là “Tướng công linh từ” - đền thờ vị tướng linh thiêng. Dẫu vậy, dù là tên gọi có thể khác nhau, song di tích chính là nơi thờ phụng vị tướng tài ba mà nhân dân Sầm Sơn bao đời qua vẫn thường gọi tên “Tây Phương Đại tướng quân”. Tương truyền, cuộc đời binh nghiệp của ông gắn liền với cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược Nguyên Mông của vương triều Trần và nhân dân Đại Việt xưa kia. Di tích đền Cá Lập trải qua hơn 700 năm khởi dựng và nhiều lần trùng tu vẫn được nhân dân trong vùng gìn giữ, bảo vệ trở thành địa điểm tín ngưỡng tâm linh thể hiện sự ngưỡng vọng của nhân dân vùng biển Sầm Sơn đối với vị tướng tài danh. Với thần tích và giá trị hiện hữu, năm 1999 di tích đền Cá Lập đã được Bộ VHTT công nhận là Di tích Quốc gia. Nguồn Sở Văn hóa , Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2770 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Kênh ( Chùa Hưng Phúc )

Nằm trong chùa Hưng Phúc, còn gọi là chùa Kênh (xã Quảng Hùng, TP Sầm Sơn), được xây dựng vào cuối mùa đông năm Giáp Tý, niên hiệu Khai Thái nguyên niên (1324) thời vua Trần Minh Tông (1314-1329), tấm bia là tài liệu gốc duy nhất ghi chép về một “hương” chiến đấu dưới thời Trần có sự đoàn kết đánh bại đội quân xâm lược Nguyên - Mông do Toa Đô chỉ huy. Chùa được xây dựng ở hương Yên Duyên để thờ Phật và thờ Thượng tướng minh tự Lê An, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (năm 1258), đồng thời được vua Trần Thái Tông phong tướng và cho gả công chúa. Là tướng cận kề Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, nên khi mất, tướng Lê An được triều đình gia phong “Đô Nguyên súy vĩ thống quản, Đại thần trụ quốc, Đại tướng quân” - một tước hiệu rất lớn dưới triều nhà Trần. Xuất phát từ tấm lòng từ bi, hiếu thuận, Lê Bằng - con thứ của Thượng tướng minh tự Lê An, đã khởi công xây dựng chùa năm 1264. Công việc chưa hoàn thành thì Lê Bằng mất, người con thứ là Lê Mạnh tiếp tục công việc và xây lại chùa rộng lớn, đẹp đẽ hơn. Năm 1326 chùa hoàn thành, gồm 11 toà nhà ngói và hai gian thảo lư khang trang, toạ ngự trên thế đất đẹp vừa trang nghiêm vừa thanh nhã. Chùa bị quân Minh xâm lược phá hủy hoàn toàn vào thế kỷ XV, chỉ còn lại tấm bia ghi chiến công của quân dân Đại Việt do tướng Lê Mạnh chỉ huy. Cụ thể, năm 1285, Lê Mạnh chỉ huy dân binh địa phương phục kích cánh quân Toa Đô từ phía Nam đi tắt qua Cổ Khê, tiến vào Thanh Hoá, đánh một trận thắng lớn ở vùng Cổ Bút. Chiến công ấy được ghi tạc trên tấm bia dựng trong chùa, một di vật quý của văn hoá Lý - Trần. Bia cao 1,5 m, rộng 0,6 m, dày 0,25 m, dựng trên lưng rùa đang xoạc chân vươn cổ về phía đông. Trán bia tạc đôi rồng chầu mặt trời uốn khúc cuồn cuộn, khỏe mạnh. Thân rồng để trơn, giản dị, đặc trưng rồng thời Lý - Trần. Bốn chữ Hưng phúc tự bi viết theo lối chữ triện trên trán bia. Hai bên là hai đường viền hoa văn cúc dây và phía dưới là sóng nước được cách điệu cao. Văn bia được soạn khắc năm khánh thành chùa, tức năm Khai Thái thứ 3 (1326), do Đô tướng quân Trần Quốc Chính đại phu soạn. Đây là một trong hơn mười tấm bia thời nhà Trần duy nhất còn lại ở Việt Nam. Bài văn bia có 2 phần: phần trên kể lại việc dựng chùa và thuật lại công tích của Lê Mạnh, phần dưới là bài minh 24 câu, ca ngợi công đức họ Lê. Với giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và tư tưởng của tấm bia cổ, ngày 4-9-1995 Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng cấp Quốc gia Di tích bia chùa Kênh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3034 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đề Lĩnh

Đền nằm trên một gò đất cao, tương truyền là nơi an táng của ông và hai người con gái. Đền hướng tây nam, phía trước là cánh đồng sen bát ngát, xa xa là dòng sông Đơ hiền hòa ngày đêm chảy về với biển. Đề Lĩnh người làng Bồng Báo, xã Vĩnh Hùng (Vĩnh Lộc), có tước quan xếp vào hạng tứ đại triều đình dưới thời Vua Lê Tương Dực (1510 -1516), là người tài trí hơn người, văn võ song toàn. Theo sử sách, từ khi được nhà vua giao trấn giữ vùng xung yếu cửa biển Sầm Sơn, ông đã tiến hành khai hoang mở đất, luyện binh, lập trại ngày đêm rèn luyện võ nghệ và chăm lo đời sống yên vui cho Nhân dân nên được mọi người rất mực ca ngợi. Trong một lần quân Minh tràn vào nước ta bằng đường biển, chúng giết dân cướp đất, tướng công Đề Lĩnh đã chiêu mộ binh sỹ đem quân đánh giặc nhưng thế trận chênh lệch lại bị cô lập không có người ứng viện kịp thời nên quân ta đã bị giăc vây hãm. Hai cô con gái của ông vì muốn báo thù cho cha nên đã cầm quân giải vây cho cha. Ba cha con chiến đấu ngoan cường cho tới giây phút cuối cùng. Ghi nhớ công lao to lớn của tướng Đề Lĩnh và hai ái nữ của ông, Nhân dân đã xây mộ, lập đền để ngày đêm kính cẩn hương khói người anh hùng dân tộc. Ngôi đền được nằm trên khoảng đất cao ráo tương truyền là phần đầu rồng linh thiêng, xung quanh là cảnh quan đẹp mắt, non nước hữu tình. Phần mộ Đề Lĩnh được xây dựng kiên cố bên trong ngôi đền.Phần mộ được ốp bới những lớp đá cổ đẹp mắt. Nơi đây còn lưu giữ 9 sắc phong cổ, được xem là báu vật của địa phương. Ngoài ra, còn có nhiều di vật cổ như: Bia ký, khánh đá, lư hương...Bảng văn chỉ có tuổi đời hàng trăm năm cũng được gìn giữ cẩn thận. Vào ngày 17 tháng giêng hằng năm, người dân địa phương lại tổ chức tế lễ hương và mở hội đấu vật để ghi nhớ công ơn đối với vị công thần của đất nước, ông tổ nghề võ vật. rải qua nhiều thế kỷ với không ít thăng trầm nhưng ngôi đền vẫn được Nhân dân chăm lo hương khói và tỏ lòng ngưỡng mộ. Năm 1993 đền đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3007 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Tô Hiến Thành

Nằm trên núi Trường Lệ, đền thờ Tô Hiến Thành là một ngôi đền cổ nổi tiếng của thị xã Sầm Sơn nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Đền còn có tên gọi là Đền Đệ Nhị hay đền Trung, là một ngôi đền trong hệ thống ba đền của làng Núi hay Sầm Thôn (Đền Độc Cước là đền Thượng, đền Đệ Nhất; Đền Hoàng Minh Tự là đền Đệ Tam hay đền Hạ). Tương truyền ngôi đền đã có lịch sử trên 800 năm, là nơi thờ Tô Hiến Thành - quan đại thần phụ chính nhà Lý dưới hai triều vua Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Ông là viên quan văn võ song toàn, nổi tiếng là công minh chính trực, được vua phong tước vương mặc dù không phải tôn thất nhà Lý. Trải qua các thăng trầm lịch sử, ngôi đền đã trải qua nhiều lần trùng tu và xây mới. Hiện tại ngôi đền có cấu trúc hình chữ Đinh, gồm 3 cung: Bái đường, Trung đường và Hậu cung. Bái đường có ba gian thờ cộng đồng các quan, là nơi tổ chức các thể thức tế lễ vào ngày lễ hội, giỗ Ngài… Trung đường có gian, là nơi đặt khám thờ và tượng ngài Tô Hiến Thành. Hậu cung đặt khám thánh vị, sắc phong. Khuôn viên đền rộng rãi, có nhiều cây xanh che bóng. Nét cổ kính, rêu phong của ngôi đền. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2804 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cô Tiên

Đền Cô Tiên nằm trên đỉnh hòn Đầu Voi cuối dãy núi Trường Lệ về phía Tây Nam. Hòn đầu voi là hòn thứ năm trong hệ thống phân loại dân gian. Nó có tên chữ là "Tượng Đầu Sơn" cũng có nghĩa núi Đầu Voi, vì dãy núi Trường Lệ đang chạy dài đến chỗ này chợt nhô ra một hòn hình dáng như đầu con voi đang cúi mình uống nước. Đền Cô Tiên được xây dựng vào thời Lý theo kiểu kiến trúc cổ, gồm 3 lớp: Tiền Đường, Trung Đường và Hậu Cung. Kiểu kiến trúc hình chữ Đinh (hay kiến trúc chuôi vồ). Trải qua bao độ mưa nắng, gió bão và sự tàn phá của chiến tranh ngôi đền đã bị hư hỏng nặng. Ngôi đền đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Những năm 90 của thế kỷ XX, Ban quản lý di tích thành phố Sầm Sơn cho sửa chữa lại một số hạng mục. Lần tu sữa gần đây nhất vào năm 2010 Thành phố Sầm Sơn đã trùng tu tôn tạo lại toàn bộ ngôi đền nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính. Kinh phí xây dựng Đền là từ nguồn tiền công đức của nhân dân và du khách thập phương. Ngôi đền đã được xếp hạng Di Tích quốc gia năm 1962. Nguồn Cổng thông tin tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 2981 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Độc Cước

Đền Độc Cước là đền thờ vị thần mang cùng tên, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền Độc Cước nằm trên đỉnh núi mang tên hòn Cổ Giải thuộc dãy núi Trường Lệ ở thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ngay cạnh bãi biển Sầm Sơn. Đền được xây dựng vào thời nhà Trần, sang đến thời nhà Lê được được trùng tu lại nhiều lần. Đường lên đền là 45 bậc bằng đá. Tượng thần Độc Cước bằng gỗ chỉ có một tay, một chân. Phía sau đền có Môn Lâu dựng năm 1863 bằng gỗ. Năm 1962 đền được Bộ Văn hóa, Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .

Thanh Hóa 3399 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thần Hoàng

Đền Thần Hoàng ở thị trấn Cốc Pài có diện tích gần 4.000m2, được xây dựng kiểu kiến trúc nhà sàn cổ, 3 gian, 2 trái với 2 cầu thang lên xuống; tổng diện tích sàn trên 250m2, gồm các hạng mục: Am thờ thiết kế kiểu dáng giống Chùa Một Cột (Hà Nội), được đổ bê-tông mặt phẳng, 3 bức tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài đỏ, chất liệu bằng sứ; sân Đền xây dựng năm 2010, láng xi-măng, dài 13m, rộng 2,5m, từ sân lên Đền 12 bậc; tầng trên đặt tượng Quan Thếm, tầng dưới đặt bát hương thờ thổ địa...; tựa lưng núi, mặt quay hướng Nam, có đôi Rồng đá rất đẹp. Đền được xây dựng trị giá trên 3,73 tỷ đồng theo nguồn vốn xã hội hóa, riêng Công ty TNHH Gia Long - đơn vị chủ động đứng ra tôn tạo di tích - đóng góp 2,9 tỷ. Đây là nơi thờ tự ông Hoàng Vần Thùng, người con của đồng bào Xín Mần đã có công khai thiên, lập đất, tổ chức dân làng làm ăn, chấn giữ biên ải cách đây nhiều thế kỷ... Hàng năm, đồng bào tổ chức tế lễ tưởng nhớ ông Hoàng Vần Thùng, coi như Thần Hoàng làng vào ngày Thìn đầu tiên, của tháng Thìn (tháng 3 âm lịch) với nghi lễ dân gian trang trọng. Ngày 30.11.2011, UBND tỉnh ra Quyết định số 2644/QĐ -UBND công nhận Đền Thần Hoàng là Di tích Lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang.

Tuyên Quang 3063 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Nậm Dầu

Cùng với Chùa Bình Lâm và chùa Sùng Khánh, Chùa Nậm Dầu đang dần trở thành một điểm đến khó có thể bỏ qua đối với du khách và phật tử gần xa, đây cũng là một ngôi chùa mang đậm dấu ấn di tích khảo cổ Quốc gia. Chùa Nậm Dầu tọa lạc trên đồi Nậm Dầu, bên dòng sông Lô thuộc thuộc địa phận thôn Nậm Thanh, xã Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên. Đã trải qua khoảng 600 năm tồn tại, được xác nhận là có mặt vào thời Trần, khoảng nửa cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV. Qua các đợt khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di vật tại chùa Nậm Dầu, có những di vật chỉ thấy có mặt tại Hoàng thành Thăng Long, hoặc ở các công trình lớn và quan trọng của triều đình, có những di vật lần đầu tiên phát hiện được ở Việt Nam và ở miền Biên cương vùng núi phía Bắc như: Đầu đao hai mặt tạo nổi hình rồng với kích thước khá lớn, tượng rồng, cá chép, uyên ương,…được trang trí đẹp mắt. Cùng với những di vật, kiến trúc trang trí của ngôi chùa càng khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng có ảnh hưởng lớn với sự phát triển nền phật giáo vùng núi biên cương Hà Giang. Đại đức Thích Đức Chung, Trụ trì chùa Nậm Dầu cho biết: Chùa Nậu Dầu là ngôi Chùa hội tụ đầy đủ các yếu tố về phong thủy và linh khí, Ngôi chùa hiện diện nơi đây đã bỏ đi được nhiều hệ lụy cho người dân, tránh mê tin dị đoan, mọi người được đến chùa lễ phật, tụng kinh. Nghe quý chư tăng, tôn đức giảng giáo lý của Đức Phật, qua đó biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc nhau và hướng đến cái thiện, cùng nhau phát triển kinh tế… Hoàn thành việc trung tu, tôn tạo vào năm 2007. Vẻ đẹp của ngôi chùa mang đậm nét văn hóa thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung được tạo nên từ sự hòa quyện giữa giá trị lịch sử, tâm linh và giá trị văn hóa nghệ thuật độc đáo. Ngày nay, chùa Nậm Dầu đóng vai trò quan trọng trong đời sống địa phương đồng thời góp phần vào thực hiện mục tiêu phát triển văn hóa du lịch tâm linh trên địa bàn tỉnh, huyện. Năm 2009 chùa Nậm Dầu được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp Quốc gia. PGS.TS. Dương Văn Sáu, Nguyên Trưởng Khoa Du lịch, Đại học Văn hóa Hà Nội chia sẻ: Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn đề cao việc giữ gìn lãnh thổ, trong đó đã biết sử dụng các công cụ về tâm linh, các tôn giáo, tín ngưỡng để bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc. Hòa quyện với tôn giáo bản địa để cùng phát triển. Có thể nói, đây đã và đang và sẽ trở thành một trong những điểm đến văn hóa tâm linh sáng giá của du lịch Vị Xuyên. Và đây là hướng đi đúng của tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Vị Xuyên nói riêng về phát triển du lịch trong thời gian tới… Nằm trong hệ thống chùa cổ của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, với những giá trị độc đáo, Chùa Nậm Dầu không chỉ tạo nên một vùng di tích đặc sắc, gợi mở cho các thế hệ nhiều điều về lịch sử của một vùng đất biên cương mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương đến hành hương, tham quan danh thắng trở thành điểm đến du lịch tâm linh nổi tiếng của Hà Giang. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang

Tuyên Quang 3453 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Ngòi Bo

Đền Ngòi Bo nay thuộc xã Thống Nhất, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hướng trông ra ngã ba sông – nơi giao thủy của suối Ngòi Bo và sông Hồng, ngôi đền là nơi thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh – một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt, “là vị thần linh thiêng bậc nhất của trời Nam”. Theo lời kể của các bậc lão niên, những người quê gốc miền xuôi trong thôn khi đến đây và gắn bó với vùng đất này đã dựng miếu, đền thờ phụng Đức Thánh Tản Viên – vị Thánh được tôn thờ ở khắp vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ với niềm tin kiền thành vào sự phù hộ, che chở của Ngài. Sự tín tưởng ấy chính là bệ đỡ, là điểm tựa tinh thần của những người con xa quê trên bước đường tạo dựng cuộc sống ở miền đất mới, đồng thời là sự nhắc nhớ, sự duy trì ký ức về quê hương bản quán, về nguồn cội cha ông. Lễ hội đền Ngòi Bo diễn ra vào ngày 11 tháng Giêng hằng năm. Đền Ngòi Bo được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Tỉnh năm 2016 Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai.

Lào Cai 1952 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích Lịch sử đồn Phố Ràng

Di tích Lịch sử Quốc gia đồn Phố Ràng ở thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên (Lào Cai) là chứng tích đặc biệt, nơi khắc ghi chiến thắng lịch sử hào hùng, oanh liệt của thế hệ cha ông 73 năm về trước (26/6/1949 – 26/6/2022).​ Theo Lịch sử đảng bộ huyện Bảo Yên (Lào Cai), đồn Phố Ràng được xây dựng trên cao điểm 442, diện tích rộng gần 1 ha; đây là một vị trí chiến lược, có thể khống chế toàn bộ khu vực lòng chảo thị trấn Phố Ràng và các khu vực lân cận. Thế đồn gần như 3 mặt là sông, ở vị trí đồn có thể bao quát, theo dõi toàn bộ các hoạt động ở sông và hai bên bờ. Pháp cho xây dựng một hệ thống công sự vững chắc với nhiều lô cốt, giao thông hào, hàng rào tre vót nhọn ken dày đặc quanh cứ điểm, mìn, vật cản và ụ súng được bố trí xung quanh đồn. Địch còn bố trí 2 trung đội Âu - Phi, 1 đội lính khố đỏ, 1 trung đội lính dù, 1 trung đội lính dõng, các loại vũ khí sẵn sàng đánh trả và cản bước tiến của các nhánh quân ta lên giải phóng vùng Tây Bắc. Ngày 11/06/1999 di tích đồn Phố Ràng được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch) công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia, theo Quyết định số 38/QĐ-BVHTT. Nguồn Bộ Văn hóa, Thể Thao – Du lịch.

Lào Cai 2162 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật